Thời gian làm việc: Từ 8h00 đến 22h00

Giá trị của nguồn nước Kiềm giàu hydrogen và khoáng chất đối với sức khỏe

Giới thiệu/Abstract

Tác dụng điều trị của nguồn nước kiềm giàu hydrogen (hydro) đối với một số bệnh đã được khảo sát từ năm 2007, kể từ khi Ohsawa et al. (2007) báo cáo tác dụng chữa bệnh đáng kinh ngạc của hydro trên mô hình chuột bị nhồi máu não được xuất bản trên tạp chí Nature Medicine. Bài báo đã thu hút rất nhiều sự quan tâm của giới khoa học. Và tính đến tháng sáu năm 2015 đã có tổng cộng 321 bài báo nghiên cứu về tác dụng chữa bệnh của hydro đã được xuất bản. Hầu hết các nghiên cứu đã được tiến hành tại Nhật Bản, Trung Quốc và Mỹ. Khoảng ba phần tư các nghiên cứu thực hiện khảo sát trên chuột. Số lượng các thử nghiệm lâm sàng ngày càng gia tăng. Có 3 cách thức sử dụng hydro, đó là uống nước giàu kiềm giàu hydro, hít khí hydro, và truyền nước muối giàu hydro (Ichihara et al., 2015).

Trước khi được xem như là khí có thể chữa bệnh, hydro đã được sử dụng để ngăn ngừa sự thuyên tắc khí nén gây ra bởi sự hình thành các bọt nitơ trong khi lặn sâu dưới biển; do đó, tính an toàn của hydro đã được nghiên cứu trước đó (Abraini et al., 1994). Trái ngược với các loại thuốc thông thường thường đi kèm với các phản ứng phụ, hydro được kiểm tra cho thấy không có độc tính, ngay cả với hàm lượng cao (Fontanari et al., 2000). Vai trò triệt tiêu các gốc oxy hóa tự do của hydro được chứng mình đầu tiên bởi Gharib et al. (2001), khi tác giả nghiên cứu trên chuột đã bị tiêm nhiễm sán máng gây bệnh viên gan mãn tính. Sau đó, tiềm năng trị liệu bằng khí hydro hay nước giàu hydro đã được nghiên cứu trên mô hình chuột bị tổn thương do tái đẩy máu (Ohsawa et al., 2007). Kết quả nghiên cứu cho thấy hydro là chất triệt tiêu peroxynitrite cũng như các gốc hydroxyl trong các thí nghiệm trên tế bào được nuôi cấy và trên cả động vật sống. Từ đó, tiềm năng trị liệu bằng hydro đối với các loại bệnh có liên quan đến các gốc oxy hóa tự do, và bệnh viêm nhiễm đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học, và đã có nhiều công trình nghiên cứu cũng như bài báo được xuất bản (Ohno et al., 2012; Ohta, 2011).

Slide 1. Trung hòa gốc tự do, căn nguyên của bệnh tật

Tóm tắt và giới thiệu hoạt tính chống tác nhân ô xi hóa tự do của nước hydrogen hoạt hóa giúp giảm stress, cân bằng sinh lý và sinh hóa của tế bào, giúp cơ thể luôn trẻ khỏe.

Vai trò triệt tiêu các gốc oxy hóa tự do của nước kiềm giàu hydro được chứng mình đầu tiên bởi Gharib et al. (2001), khi tác giả nghiên cứu trên chuột đã bị tiêm nhiễm sán máng gây bệnh viên gan mãn tính. Sau đó, tiềm năng trị liệu bằng khí hydro hay nước giàu hydro đã được nghiên cứu trên mô hình chuột bị tổn thương do tái đẩy máu (Ohsawa et al., 2007). Kết quả nghiên cứu cho thấy: nguồn nước giày hydrogen hoạt hoat là chất triệt tiêu peroxynitrite cũng như các gốc hydroxyl trong các thí nghiệm trên tế bào được nuôi cấy và trên cả động vật sống. Từ đó, tiềm năng trị liệu bằng hydro đối với các loại bệnh có liên quan đến các gốc oxy hóa tự do, và bệnh viêm nhiễm đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học, và đã có nhiều công trình nghiên cứu về khả năng loại bỏ gốc tự do (Ohno et al., 2012; Ohta, 2011). Đối với hoạt động của con người, trong quá trình vận động tối đa như chạy liên tục, chạy nước rút, và nhảy đòi hỏi cần bổ sung năng lượng và oxy, sẽ tăng sản xuất các gốc oxy hóa tự do (Reactive Oxygen Species-ROS), và các gốc nitơ hoạt hóa (Reactive Nitrogenous Species-RNS) làm mất cân bằng oxy hóa khử trong cơ thể sinh ra stress do các tác nhân oxy hóa sinh ra ở dạng gốc tự do; trong điều kiện hoạt động bình thường ROS và RNS được tạo ra ở mức thấp, và sau đó loại bỏ bởi các hệ thống chống oxy hóa. Tuy nhiên trong điều kiện môi trường sống ô nhiễm, stress kèm các hoạt động sinh hoạt không tốt như bia rươu, ăn quá nhiều đạm, lười vận động…, dẫn đến tốc độ sản xuất ROS tăng đáng kể vượt quá khả năng của các hệ thống bảo vệ, các gốc tự do ROS sẽ tấn công màng tế bào, có thể dẫn đến các tổn thương cơ xương, và viêm do tập thể dục quá sức (Djordjevic et al., 2011; Tanskanen et al., 2010). Nước kiềm ion giàu hydro hoạt hóa được biết như một chất quét các gốc oxy hóa tự do-ROS- hiệu quả (Ohsawa et al., 2007), và tạo ra một số protein chống oxy hóa (Buchholz et al., 2011). Aoki et al. (2012) đã đánh giá hiệu quả của nước giàu hydro trên người khỏe mạnh bằng cách đo sự mệt mỏi cơ bắp, và nồng độ lactate trong máu sau khi tập thể dục. Gần đây, nghiên cứu của Aoki et al. (2012) cũng đã cho thấy nước giàu kiềm giàu hydro có thể là thức uống cung cấp nước thích hợp cho các vận động viên, vì làm giảm nồng độ lactate trong máu, và cải thiện sự suy giảm của chức năng cơ bắp do tập luyện nhiều.

Trong các ROS, gốc hydroxyl là gốc oxy hóa tự do đặc biệt, rất độc hại do phản ứng cực nhanh, và có thể phản ứng không phân biệt chất nào. Các gốc hydroxyl được cho là đóng một vai trò nào đó gây nên bệnh viêm thấp khớp (Filippin et al., 2008). Cho nên, các hoạt chất có thể triệt tiêu hiệu quả các gốc oxy hóa tự do, bao gồm cả gốc hydroxyl, được dự kiến sẽ trở thành một phương pháp trị liệu mới. Trong một nghiên cứu của Ishibashi et al. (2012), tác giả đã nghiên cứu trên 20 bệnh nhân thấp khớp. Các bệnh nhân này mỗi ngày uống 530mL nước chứa từ 4-5ppm Hydro (nước giàu hydro) trong 4 tuần, nghỉ 4 tuần, và tiếp tục uống nước chứa Hydro trong 4 tuần nữa. Kết quả nghiên cứu cho thấy hàm lượng 8-OHdG trong nước tiểu giảm 14,3% (p < 0,01); chỉ số DAS28 (Chỉ số đánh giá hoạt tính bệnh - Disease activity score) cũng giảm từ 3,83 xuống 3,02 (p < 0,01) trong 4 tuần đầu. Trong 4 tuần uống nước hydro ở giai đoạn sau, chỉ số DAS28 giảm từ 2,83 xuống 2,26 (p < 0,01). Trong khi đó, hàm lượng 8-OHdG không giảm nhưng vẫn giữ ở mức thấp. Bốn trong số năm bệnh nhân bị bệnh viêm thấp khớp ở giai đoạn khởi phát ( < 12 tháng) đã hoàn toàn khỏe mạnh, không còn bị viêm khớp dạng thấp nữa. Tác giả kết luận các gốc hydroxyl đã bị triệt tiêu hiệu quả bởi Hydro làm giảm stress oxy hóa.

Stress oxy hóa (oxidative stress) là hậu quả của sự mất cân bằng giữa sản sinh các gốc tự do oxy hóa (reactive oxygen species - ROS) và khả năng hoạt động của hệ thống chống oxy hóa. Stress oxy hóa đã được công nhận rộng rãi như là tác nhân gắn liền với một số rối loạn của cơ thể như tiểu đường, cao huyết áp, và xơ vữa động mạch. Kháng Insulin hiện đang nhận rất nhiều sự quan tâm, không chỉ là nguyên nhân gây bệnh tiểu đường tuýp 2, mà còn là một yếu tố dự báo nguy cơ gia tăng bệnh tim mạch. Shirahata et al. (1997) đã cho biết nước điện giải (Electrolyzed-reduced water – ERW) có pH cao, hàm lượng hydro hòa tan cao, hàm lượng oxy hòa tan thấp, và giá trị ORP âm, có khả loại tiêu diệt các gốc tự do oxy hóa, và do đó bảo vệ DNA khỏi các tổn hại do quá trình oxy hóa gây ra. Gần đây, Ignacio et al. (2013) đã áp dụng mô hình chuột NC/Nga tiếp xúc với DfE nhằm mô phỏng cơ chế sinh bệnh viêm da cơ địa trên người. Nước chứa hàm lượng hydro hoạt hóa đã được chứng minh có tính chống oxy hóa tuyệt vời, cũng như đặc tính kháng viêm. Hydro hoạt hóa hoạt động như một chất chống oxy hóa, và cho thấy có khả năng bảo vệ các tổn thương do oxy hóa gây ra trong các thí nghiệm in vitro (Shirahata et al., 2007). Hydro cũng đã được báo cáo rằng có khả năng quét có chọn lọc các gốc oxy hóa tự do (ROS), và cho thấy có ảnh hưởng tích cực khi mất cân bằng cytokine. Hydro đã được chứng mình dễ xâm nhập vào da, khuếch tán nhanh chóng vào các mô và tế bào, và phân phối trong cơ thể qua sự lưu thông máu (Ohta, 2011). Hydro có thể được đưa vào cơ thể qua đường hô hấp ở dạng khí hydro, hoặc uống nước chứa nước kiềm giàu hydro hòa tan, và cũng có thể truyền nước muối có hydro hòa tan. Ignacio et al. (2013) đã xem xét hiệu quả miễn dịch của việc uống nước hydro trên chuột NC/Nga bị tổn thương da như viêm da cơ địa do DfE gây ra. Chuột được cho uống nước chứa hydro (0,50 ppm) và nước tinh khiết trong 25 ngày. Kết quả nghiên cứu cho thấy lượng huyết thanh của các cytokine như IL-10, TNF- , IL-12p70, và GM-CSF ở chuột được cho uống nước chứa hydro giảm đáng kể so với nhóm chuột uống nước tinh khiết. Bên cạnh đó nghiên cứu còn ghi nhận việc giảm đau hiệu quả lên bệnh viêm da cơ địa, phương pháp trị liệu hydrogen hứa hẹn là một phương pháp trị liệu bệnh viêm da cơ địa đầy tiềm năng.

Slide 2.  Nước kiềm giàu hydrogen và tốt cho đường tiêu hóa

Đau dạ dày

Trong những thập kỷ gần đây, đã có nhiều chứng cứ chỉ ra rằng niêm mạc thiếu oxy-thiếu máu là nguyên nhân chính của tổn thương dạ dày do stress bị lạnh cứng gây ra (mucosal hypoxia-ischemia is the major cause of cold immobilization stress-induced gastric injury). Trong điều kiện thiếu oxy-thiếu máu cục bộ, các gốc oxy hóa tự do (ROS) như các anion superoxide (O2-), hydrogen peroxide (H2O2), và các gốc hydroxyl (OH) được tạo ra liên tục và nhanh chóng, và kết quả là stress oxy hóa, đây là nhân tố quan trọng làm phát triển và tiến triển quá trình hoại tử biểu mô, và viêm loét niêm mạc. Ngày càng nhiều các bằng chứng lâm sàng và các thử nghiệm trên cơ thể người đã chứng minh rằng tổn thương niêm mạc dạ dày do stress gây ra thông qua trung gian các gốc oxy hóa tự do (Jia et al., 2007). Các nhà khoa học cũng đã chứng minh rằng gốc hydroxyl là một trong những nguyên nhân chính gây loét dạ dày do stress. Gốc tự do hydroxyl là một trong những gốc oxy hóa tự do độc nhất, tồn tại chỉ trong một thời gian rất ngắn khoảng một phần tỷ giây, và chỉ có thể khuếch tán khoảng 4 nm (nanomet) trước phản ứng. Do đó, chỉ cần một phần nghìn giây đã đủ cho gốc hydroxyl làm tổn hại DNA (Roots & Okada, 1972). Cho đến bây giờ, vẫn chưa biết hệ thống giải độc nội sinh đối với gốc hydroxyl (Ohsawa et al., 2007). Cho nên, các chất có khả năng quét gốc hydroxyl có tiềm năng to lớn nhằm kiểm soát viêm loét dạ dày do stress gây ra. 

Vào năm 2012, (Liu et al.) đã xây dựng một mô hình trên chuột bị gây loét dạ dày do stress bị lạnh gây ra (a rat restraint-cold stress-induced gastric ulceration model) để khảo sát hiệu quả bảo vệ, và cơ chế hoạt động của hydro. Chuột trong nhóm điều trị được tiêm nước muối giàu hydro (10 mL/kg trọng lượng cơ thể) 5 phút trước khi bị gây stress. 6 giờ sau stress, niêm mạc thân vị dạ dày được lấy mẫu để đo malondialdehyde, cacbonyl protein, 8-hydroxy-desoxyguanosine, glutathione, superoxide dismutase, myeloperoxidase, TNF-α, IL-1β và cytokine-induced neutrophils chemoattractant-1. In addition, western blotting was used to determine the expression of p38 MAPK, P-p38 MAPK, P-JNk, JNK, Bcl-xl, Bax and cleaved caspase-3. Nuclear translocation of NF-κB was assessed by electrophoretic mobility shift assay. Cấu trúc niêm mạc dạ dày, và quá trình chết rụng tế bào apoptosis của tế bào biểu mô niêm mạc được đo lúc 12 giờ sau stress. Kết quả nghiên cứu của Liu et al. (2012) cho thấy điều trị hydro làm giảm sự peroxy hóa lipid do stress gây ra, protein carbonyl và chất oxy hóa DNA; và tăng cường khả năng chống oxy hóa của các mô. Ngoài ra, hydro làm giảm phản ứng viêm, và bạch cầu trung tính xâm nhập đàn áp sự hoạt động của P-p38 MAPK, P-JNK và NF-κB. Quan trọng hơn hết, hydro phục hồi các tổn thương niêm mạc dạ dày khi ngăn ngừa quá trình chết rụng tế bào apoptosis. Bên cạnh đó, the up-regulation of cleaved caspase-3, Bax and down-regulation of Bcl-xl expression were blocked by hydrogen treatment. Với những kết quả được tìm thấy, tác giả đã kết luận xử lý hydro có hiệu quả khi phục hồi các tổn thương niêm mạc dạ dày do stress gây ra thông qua khả năng chống oxy hóa, tác dụng chống viêm, và chống sự chết rụng tế bào apoptosis của hydro.

Ung thư đại tràng

Hydro là một chất chống oxy hóa có khả năng quét các gốc oxy hóa tự do (ROS). Đặc biệt, hydro có thể khử các gốc hydroxyl (●OH, là gốc oxy hóa tự do độc hại nhất), và peroxynitrite (ONOO-). Nếu cơ thể sinh ra nhiều ROS trong một thời gian dài như stress oxy hóa sẽ dẫn đến rối loạn chuyển hóa, và là thủ phạm gây bệnh ung thư. Do vậy, hydro đã được đề xuất như là phương pháp thích hợp phối hợp với các biện pháp trị liệu khác để chữa trị một số bệnh như bệnh tim mạch, bệnh mạch máu não, bệnh chuyển hóa, rối loạn hô hấp, và một số bệnh ung thư. Ngày nay, Hydro được đánh giá rất cao như một biện pháp đầy hứa hẹn trong phòng ngừa bệnh ung thư, hoặc trị liệu kết hợp với các loại thuốc chống ung thư. Uống nước hydro có thể làm giảm các tác dụng phụ của thuốc chống ung thư, vì hydro làm giảm stress oxy hóa, và làm giảm quá trình chết rụng tế bào apoptosis (Nagata et al., 2009). Hydro cũng cho thấy có khả năng chống phóng xạ (radioprotective) do bảo vệ hệ thống miễn dịch (Yang et al., 2012). Ngoài ra, hydro có thể làm giảm bớt tổn thương huyết học gây ra bởi bức xạ thông qua việc kìm hãm sự hoạt hóa caspase 3. 5-fluorouracil (5FU) là thuốc hóa trị liệu tuyến đầu trong điều trị ung thư đại tràng, do tác động của nó đối với các khu vực trực tràng, và khả năng ức chế sự phát triển của các tế bào ung thư bằng cách kết hợp sự chuyển hóa của 5FU vào DNA và RNA (Longley et al., 2003). Hợp chất này đã được báo cáo là có hiệu quả trong điều trị các bướu cứng, và ngăn ngừa di căn xuống gan trên 26 tế bào ung thư biểu mô tuyến ở đại tràng trên chuột (prevention of liver metastasis of colon 26 adenocarcinoma cells in mice). Sự kết hợp giữa 5-FU với phương trị liệu khác bao gồm xạ trị và thuốc chống ung thư khác nhằm tăng cường tác dụng chống ung thư của 5FU (Tominaga et al., 1993). Tăng liên kết hydro với fluorouracil cũng đã được đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của thuốc (Kugimiya et al., 2001). Trong nỗ lực tìm hiểu vai trò của nước giàu hydro trong điều trị ung thư, Runtuwene et al. (2015) đã nghiên cứu các quá trình như tỷ lệ sống của tế bào, quá trình chết rụng tế bào apoptosis, và các thông số chống ung thư trên mô hình động vật đang bị chứng suy mòn do ung thư (colon 26-induced cancer mice) được xử lý bằng nước giàu hydro (HHW), hoặc nước hydro tự nhiên (NHW) và 5-FU. Kết quả cho thấy Hydrogen water administration improved the survival of mice with colon 26-induced cancer.

 

Slide 3. Nước kiềm giàu hydrogen và khả năng kháng viêm

Bệnh viêm thấp khớp 

Viêm thấp khớp (Rheumatoid arthritis - RA) là một bệnh viêm mãn tính chiếm khoảng 1% dân số. Đây là bệnh tự kháng gây đau khớp và sưng khớp. Chức năng bình thường của hệ miễn nhiễm trong cơ thể là chống lại các viêm nhiễm để giữ cho con người mạnh khỏe. Trong trường hợp bệnh viêm thấp khớp, mục tiêu tấn công của hệ thống miễn nhiễm là lớp màng bao phủ các khớp xương, gây viêm khớp và tổn thương khớp. Ngoài ra, bệnh viêm thấp khớp còn thường gây tổn thương da, mô dưới da, hệ hô hấp và hệ tuần hoàn như màng phổi và màng tim, từ đó làm giảm chất lượng cuộc sống của bệnh nhân viêm thấp khớp (Ishibashi et al., 2012). Mặc dù không rõ nguyên nhân, nhưng chắc chắn bệnh viêm thấp khớp có liên quan đến sự tự rối loạn hệ miễn dịch. Các tế bào T xâm nhập vào mô hoạt dịch thúc đẩy các phản ứng miễn dịch, và dẫn đến sản xuất quá nhiều các cytokine gây viêm (proinflammatory cytokines) như TNF- α và IL6. Vì vậy, điều trị sớm là dựa trên biến đổi sinh học tích cực của bệnh, bằng cách kiểm soát các tế bào màng hoạt dịch T và/hoặc kìm hãm sự sản sinh cytokine (McInnes & Schett, 2011).

Ngoài sự hiện diện của các tác nhân trong hệ miễn nhiễm, các gốc tự do oxy hóa (reactive oxygen species - ROS) cũng được rất quan tâm trong quá trình điều trị bệnh thấp khớp. Bởi vì các gốc tự do oxy hóa là khởi nguồn của các cytokine gây viêm. Sự kích hoạt yếu tố nhân kappa B (NF-κB) sản sinh lượng lớn các gốc tự do oxy hóa, dẫn đến gia tăng cytokine gây viêm, và làm cho các khớp bị viêm liên tục. Trong các ROS, gốc hydroxyl là gốc oxy hóa tự do đặc biệt, rất độc hại do phản ứng cực nhanh, và có thể phản ứng không phân biệt chất nào. Các gốc hydroxyl tự do được cho là đóng một vai trò nào đó gây nên bệnh viêm thấp khớp (Filippin et al., 2008). Cho nên, các hoạt chất có thể triệt tiêu hiệu quả các gốc oxy hóa tự do, bao gồm cả gốc hydroxyl, được dự kiến sẽ trở thành một phương pháp trị liệu mới.

Các gốc tự do oxy hóa được sản xuất như một sản phẩm phụ trong quá trình oxy-phosphoryl hóa phóng điện tử (Papa, 1996). Các gốc tự do oxy hóa cũng được sản sinh bởi NADPH oxidase, một enzyme gắn với màng tế bào đóng vai trò rất quan trọng trong hệ miễn dịch (Cross & Segal, 2004). Các gốc tự do oxy hóa bao gồm các gốc superoxide, peroxide, hydroxyl and các loại nitơ hoạt hóa. Các gốc tự do này oxy hóa các thành phần của tế bào, và ngoại bào như nucleotide, DNA, protein, polysaccharide, và lipid (Winyard et al., 2011). Từ đó, tạo ra rất nhiều sản phẩm phụ. Các sản phẩm này đã được xác định trong các mẫu kiểm lâm sàng như mẫu máu, hay chất dịch từ khớp của các bệnh nhân viêm thấp khớp. Trong số đó, 8hydroxyguanine (8-OHdG) là quan trọng nhất. Đây là sản phẩm của quá trình các gốc tự do oxy hóa guanine (một ba zơ của DNA) (Kasai et al., 1986). 8-OHdG là một chất đánh dấu sinh học tiêu chuẩn khi cơ thể bị mất cân bằng oxy hóa (oxidative stress). Đã có rất nhiều nghiên cứu chứng minh 8-OHdG xuất hiện và tích tụ trong các bệnh liên quan đến mất cân bằng oxy hóa, chẳng hạn như ung thư, đái tháo đường, bệnh Alzheimer, tăng huyết áp, bệnh thận mãn tính, bệnh tim mạch, hội chứng chuyển hóa (metabolic syndrome), và bệnh tự miễn (autoimmune disease). Hàm lượng 8-OHdG đã được tìm thấy trong các bệnh nhân bệnh thấp khớp (Bashir et al., 1993). 

Trong một nghiên cứu của Ishibashi et al. (2012), tác giả đã nghiên cứu trên 20 bệnh nhân thấp khớp. Các bệnh nhân này mỗi ngày uống 530mL nước chứa từ 4-5ppm Hydro (nước giàu hydro) trong 4 tuần, nghỉ 4 tuần, và tiếp tục uống nước chứa Hydro trong 4 tuần nữa. Kết quả nghiên cứu cho thấy hàm lượng 8-OHdG trong nước tiểu giảm 14,3% (p < 0,01); chỉ số DAS28 (Chỉ số đánh giá hoạt tính bệnh - Disease activity score) cũng giảm từ 3,83 xuống 3,02 (p < 0,01) trong 4 tuần đầu. Trong 4 tuần uống nước hydro ở giai đoạn sau, chỉ số DAS28 giảm từ 2,83 xuống 2,26 (p < 0,01). Trong khi đó, hàm lượng 8-OHdG không giảm nhưng vẫn giữ ở mức thấp. Bốn trong số năm bệnh nhân bị bệnh viêm thấp khớp ở giai đoạn khởi phát ( < 12 tháng) đã hoàn toàn khỏe mạnh, không còn bị viêm khớp dạng thấp nữa. Tác giả kết luận các gốc tự do hydroxyl đã bị triệt tiêu hiệu quả bởi Hydro làm giảm stress oxy hóa; các triệu chứng của bệnh viêm khớp dạng thấp cũng được cải thiện đáng kể khi uống nước hydro với nồng độ cao.

Tuy nhiên, vẫn chưa rõ nước kiềm giàu hydro ảnh hưởng thế nào đến màng hoạt dịch giữa các khớp nối, hay các tế bào có liên quan đến hệ miễn nhiễm, đây là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến bệnh viêm khớp dạng thấp mãn tính. Ngoài ra, vẫn chưa biết liệu uống nước hydro ở nồng độ cao, hydro có khuếch tán thụ động qua con đường tiêu hóa. Cách đưa hydro vào cơ thể cần được nghiên cứu thêm, vì có khả năng sẽ là một phương pháp điều trị chống viêm nhanh chóng, mạnh mẽ và an toàn. Một trong những phương pháp đó là truyền nước muối có chứa hydro hòa tan. Ishibashi et al. (2014) đã nghiên cứu độ an toàn và tính hiệu quả của việc truyền nước muối chứa hydro trong điều trị bệnh viêm thấp khớp. Tác giả đã thực hiện nghiên cứu trên 24 bệnh nhân viêm thấp khớp. Trong đó, 12 bệnh nhân được truyền nước muối chứa hydro (1ppm), và 12 bệnh nhân được truyền nước muối chứa giả dược, các bệnh nhân được lựa chọn ngẫu nhiên. Mỗi ngày các bệnh nhân được truyền tĩnh mạch 500ml dịch truyền, trong 5 ngày. Chỉ số DAS28 được đo lúc ban đầu, ngay sau khi truyền, và sau 4 tuần. Các chất đánh dấu sinh học của bệnh viêm khớp dạng thấp cũng được khảo sát như TNF-α, IL6, MMP-3 và 8-OHdG. Kết quả cho thấy những bệnh nhân viêm thấp khớp được truyền nước muối chứa hydro có chỉ số DAS28 giảm từ 5,18 ± 1,16 xuống 4,02 ± 1,25 ngay sau khi truyền, và sau 4 tuần thì giảm xuống còn 3,74 ± 1,22; hàm lượng IL-6 giảm 37,3 ± 62,0%; hàm lượng 8-OHdG giảm 4,7%; và hàm lượng MMP-3 giảm 19,2% ± 24,6%. Trong khi đó, với nhóm đối chứng được truyền nước muối chứa giả dược thì không có sự giảm đáng kể nào khi xét chỉ số DAS28, IL6 tăng 33,6 ± 34,4%; và MMP-3 tăng 16,9% ± 50,2%. Tác giả kết luận truyền nhỏ giọt nước muối chứa hydro an toàn và hiệu quả khi dùng điều trị bệnh viêm khớp dạng thấp.

 

Slide 4. Nước kiềm Hydrogen và khả năng chống lại bệnh Gout

(chưa có đầy đủ trích dẫn về việc giảm việc hình thành và đải thải acid uric khỏi cơ thể dưới tác dụng của nguồn nước kiềm giàu hydro và khoáng chất)

 

Slide 5. Nước kiềm giàu Hydrogen và khả năng kháng lại bệnh tiểu đường

Bệnh tiểu đường

Bệnh tiểu đường tuýp 2 (Type 2 Diabetes Mellitus – T2DM) đang ngày càng gia tăng, và trở thành một mối lo đáng ngại về sức khỏe cộng đồng ở nhiều nơi trên thế giới. Ở Nhật Bản, ước tính khoảng 7 triệu người mắc bệnh tiểu đường tuýp 2, và 7 triệu người đang bị tiền tiểu đường. Khẩu phần ăn và lối sống là những yếu tố rủi ro chính làm bùng phát căn bệnh này.

Stress oxy hóa (oxidative stress) là hậu quả của sự mất cân bằng giữa sản sinh các gốc tự do oxy hóa (reactive oxygen species - ROS) và khả năng hoạt động của hệ thống chống oxy hóa. Stress oxy hóa đã được công nhận rộng rãi như là tác nhân gắn liền với một số rối loạn của cơ thể như tiểu đường, cao huyết áp, và xơ vữa động mạch. Kháng Insulin hiện đang nhận rất nhiều sự quan tâm, không chỉ là nguyên nhân gây bệnh tiểu đường tuýp 2, mà còn là một yếu tố dự báo nguy cơ gia tăng bệnh tim mạch. Shirahata et al. (1997) đã cho biết nước điện giải (Electrolyzed-reduced water – ERW) có pH cao, hàm lượng hydro hòa tan cao, hàm lượng oxy hòa tan thấp, và giá trị ORP âm, có khả loại tiêu diệt các gốc tự do oxy hóa, và do đó bảo vệ DNA khỏi các tổn hại do quá trình oxy hóa gây ra. Gần đây, Kim and Kim (2006) đã báo cáo nước điện giải có thể cải thiện tình trạng glucose trong máu, khi tác giả khảo sát trên mô hình động vật bị thiếu insulin hoặc bị kháng insulin.

Năm 2008, (Kajiyama et al.) đã khảo sát khảo sát trên 30 bệnh nhân tiểu đường tuýp 2 và 6 bệnh nhân giảm dung nạp glucose (impaired glucose tolerance – IGT). Bệnh nhân được cho uống 900mL nước giàu hydro trong một ngày, hoặc 900mL nước tinh khiết chứa giả dược trong 8 tuần, sau đó nghỉ 12 tuần. Một số chỉ thị sinh học như stress oxy hóa, kháng insulin, và trao đổi glucose đã được khảo sát. Kết quả nghiên cứu cho thấy uống nước giàu hydro làm giảm đáng kể hàm lượng modified LDL (15,5%), small dense LDL

(5,7%), và 8-isoprostanes trong nước tiểu (6,6%). Bên cạnh đó, nước giàu hydro cũng cho kết quả làm giảm oxidized LDL, acid béo tự do, và làm tăng lượng adiponectin (chất giúp nâng cao sự chuyển hóa đường, và chất béo trong tế bào cơ bắp, đồng thời thúc đẩy sự đốt cháy chất béo trong cơ thể), và tăng lượng EC-SOD (extracellular-superoxide dismutase – là một enzyme chống oxy hóa, thu dọn các gốc superoxide (O2-) chuyển thành phân tử oxy (O2) hoặc H2O). Bốn trong sáu bệnh nhân giảm dung nạp glucose (IGT) có kết quả kiểm tra dung nạp glucose qua đường uống bình thường khi uống nước giàu hydro. Nói tóm lại, những kết quả trên cho thấy uống nước giàu hydro có thể có những tác động tích cực đến việc ngăn ngừa bệnh tiểu đường tuýp 2 và kháng insulin.

Tài liệu tham khảo:

Aoki, K., Nakao, A., Adachi, T., Matsui, Y., Miyakawa, S. 2012. Pilot study: Effects of drinking hydrogen-rich water on muscle fatigue caused by acute exercise in elite athletes. Medical gas research, 2(1), 12.
Bashir, S., Harris, G., Denman, M.A., Blake, D.R., Winyard, P.G. 1993. Oxidative DNA damage and cellular sensitivity to oxidative stress in human autoimmune diseases. Annals of the rheumatic diseases, 52(9), 659666.
Buchholz, B.M., Masutani, K., Kawamura, T., Peng, X., Toyoda, Y., Billiar, T.R., Bauer, A.J., Nakao, A. 2011. Hydrogen-enriched preservation protects the isogeneic intestinal graft and amends recipient gastric function during transplantation. Transplantation, 92(9), 985-992.
Cross, A.R., Segal, A.W. 2004. The NADPH oxidase of professional phagocytes—prototype of the NOX electron transport chain systems. Biochimica et Biophysica Acta (BBA)-Bioenergetics, 1657(1), 1-22.
Djordjevic, D., Cubrilo, D., Macura, M., Barudzic, N., Djuric, D., Jakovljevic, V. 2011. The influence of training status on oxidative stress in young male handball players. Molecular and cellular biochemistry, 351(1-2), 251-259.
Filippin, L.I., Vercelino, R., Marroni, N., Xavier, R.M. 2008. Redox signalling and the inflammatory response in rheumatoid arthritis. Clinical & Experimental Immunology, 152(3), 415-422.
Gharib, B., Hanna, S., Abdallahi, O.M., Lepidi, H., Gardette, B., De Reggi, M. 2001. Anti-inflammatory properties of molecular hydrogen: investigation on parasite-induced liver inflammation. Comptes Rendus de l'Académie des Sciences-Series III-Sciences de la Vie, 324(8), 719-724.
Ignacio, R.M.C., Kwak, H.-S., Yun, Y.-U., Sajo, M.E.J.V., Yoon, Y.-S., Kim, C.-S., Kim, S.-K., Lee, K.-J. 2013. The drinking effect of hydrogen water on atopic dermatitis induced by Dermatophagoides farinae allergen in NC/Nga mice. Evidence-Based Complementary and Alternative Medicine, 2013.
Ishibashi, T., Sato, B., Rikitake, M., Seo, T., Kurokawa, R., Hara, Y., Naritomi, Y., Hara, H., Nagao, T. 2012. Consumption of water containing a high concentration of molecular hydrogen reduces oxidative stress and disease activity in patients with rheumatoid arthritis: an open-label pilot study. Medical gas research, 2(1), 1.
Ishibashi, T., Sato, B., Shibata, S., Sakai, T., Hara, Y., Naritomi, Y., Koyanagi, S., Hara, H., Nagao, T. 2014. Therapeutic efficacy of infused molecular hydrogen in saline on rheumatoid arthritis: a randomized, doubleblind, placebo-controlled pilot study. International immunopharmacology, 21(2), 468-473.
Jia, Y.-T., Wei, W., Ma, B., Xu, Y., Liu, W.-J., Wang, Y., Lv, K.-Y., Tang, H.-T., Wei, D., Xia, Z.-F. 2007. Activation of p38 MAPK by reactive oxygen species is essential in a rat model of stress-induced gastric mucosal injury. The Journal of Immunology, 179(11), 7808-7819.
Kajiyama, S., Hasegawa, G., Asano, M., Hosoda, H., Fukui, M., Nakamura, N., Kitawaki, J., Imai, S., Nakano, K., Ohta, M. 2008. Supplementation of hydrogen-rich water improves lipid and glucose metabolism in patients with type 2 diabetes or impaired glucose tolerance. Nutrition Research, 28(3), 137-143.
Kasai, H., Crain, P., Kuchino, Y., Nishimura, S., Ootsuyama, A., Tanooka, H. 1986. Formation of 8-hydroxyguanine moiety in cellular DNA by agents producing oxygen radicals and evidence for its repair. Carcinogenesis, 7(11), 1849-1851.
Kim, M.-J., Kim, H.K. 2006. Anti-diabetic effects of electrolyzed reduced water in streptozotocin-induced and genetic diabetic mice. Life sciences, 79(24), 2288-2292.
Liu, X., Chen, Z., Mao, N., Xie, Y. 2012. The protective of hydrogen on stress-induced gastric ulceration. International immunopharmacology, 13(2), 197-203.
McInnes, I.B., Schett, G. 2011. The pathogenesis of rheumatoid arthritis. New England Journal of Medicine, 365(23), 2205-2219.
Ohno, K., Ito, M., Ichihara, M., Ito, M. 2012. Molecular hydrogen as an emerging therapeutic medical gas for neurodegenerative and other diseases. Oxidative Medicine and Cellular Longevity, 2012.
Ohsawa, I., Ishikawa, M., Takahashi, K., Watanabe, M., Nishimaki, K., Yamagata, K., Katsura, K.-i., Katayama, Y., Asoh, S., Ohta, S. 2007. Hydrogen acts as a therapeutic antioxidant by selectively reducing cytotoxic oxygen radicals. Nature medicine, 13(6), 688-694.
Ohta, S. 2011. Recent progress toward hydrogen medicine: potential of molecular hydrogen for preventive and therapeutic applications. Current pharmaceutical design, 17(22), 2241-2252.
Papa, S. 1996. Mitochondrial oxidative phosphorylation changes in the life span. Molecular aspects and physiopathological implications. Biochimica et Biophysica Acta (BBA)-Bioenergetics, 1276(2), 87-105.
Roots, R., Okada, S. 1972. Protection of DNA molecules of cultured mammalian cells from radiation-induced singlestrand scissions by various alcohols and SH compounds. International Journal of Radiation Biology and Related Studies in Physics, Chemistry and Medicine, 21(4), 329-342.
Shirahata, S., Kabayama, S., Nakano, M., Miura, T., Kusumoto, K., Gotoh, M., Hayashi, H., Otsubo, K., Morisawa, S., Katakura, Y. 1997. Electrolyzed–reduced water scavenges active oxygen species and protects DNA from oxidative damage. Biochemical and biophysical research communications, 234(1), 269-274.
Shirahata, S., Li, Y., Hamasaki, T., Gadek, Z., Teruya, K., Kabayama, S., Otsubo, K., Morisawa, S., Ishii, Y., Katakura, Y. 2007. Redox regulation by reduced waters as active hydrogen donors and intracellular ROS scavengers for prevention of type 2 diabetes. in: Cell technology for cell products, Springer, pp. 99-101.
Tanskanen, M., Atalay, M., Uusitalo, A. 2010. Altered oxidative stress in overtrained athletes. Journal of sports sciences, 28(3), 309-317.
Winyard, P.G., Ryan, B., Eggleton, P., Nissim, A., Taylor, E., Faro, M.L.L., Burkholz, T., Szabó-Taylor, K.E., Fox, B., Viner, N. 2011. Measurement and meaning of markers of reactive species of oxygen, nitrogen and sulfur in healthy human subjects and patients with inflammatory joint disease, Portland Press Limited.
Bình luận của bạn
IONPIA - Máy lọc nước ion kiềm Hydrogen hàng đầu Hàn Quốc IONPIA - Máy lọc nước ion kiềm Hydrogen hàng đầu Hàn Quốc IONPIA - Máy lọc nước ion kiềm Hydrogen hàng đầu Hàn Quốc